VLXD EPS _ VLXKN PHÁT TRIỂN TÍCH CỰC
BÊ TÔNG NHẸ _VLXD EPS _ VLXKN PHÁT TRIỂN TÍCH CỰC
Phát triển VLXKN có sự chuyển biến tích cực
Đối với lĩnh vực vật liệu xây không nung (VLXKN) hay VLXD EPS và cụ thể là BÊ TÔNG NHẸ báo cáo tại Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 (Chương trình 567) của Thủ tướng Chính phủ ngày 06/11/2020 cho thấy, việc đầu tư, sản xuất và sử dụng VLXKN đã có sự chuyển biến tích cực; các công nghệ mới, thiết bị mới sản xuất VLXKN từng bước được đầu tư, phát triển; các sản phẩm VLXKN đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng từng bước được hoàn thiện và nâng cao; công tác thanh kiểm tra từng bước đi vào nề nếp…
Sau 10 năm thực hiện Chương trình 567, tổng công suất thiết kế của 3 loại sản phẩm chính là gạch bê tông nhẹ EPS (gạch xi măng - cốt liệu xốp), gạch bê tông khí chưng áp (AAC) và gạch bê tông bọt đến năm 2020 đạt khoảng 10,2 tỷ viên QTC/ năm. Tuy nhiên hiện nay, các DN chỉ phát huy được khoảng trên 40% công suất thiết kế, sản lượng sản xuất chỉ đạt khoảng 5 tỷ viên QTC, chiếm trên 25% so với tổng sản lượng vật liệu xây.
Mặc dù về cơ bản, kết quả chưa đạt được mục tiêu của Chương trình, tuy nhiên với sản lượng trên thì hàng năm tiết kiệm được khoảng 7,5 triệu m3 đất sét - tương đương 375 ha đất khai thác ở độ sâu 2 m, giảm tiêu thụ khoảng 750.000 tấn than và giảm thải ra môi trường khoảng 2,85 triệu tấn CO2. Đây là kết quả ấn tượng góp phần giảm thải gây ô nhiễm môi trường và giảm quá trình suy giảm diện tích đất nông nghiệp ở nước ta…
Chiến lược phát triển VLXD - Bệ đỡ chính sách
Ngày 18/8/2020, tại Quyết định 1266/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành Chiến lược phát triển VLXD EPS Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050 (Chiến lược).
Chiến lược có mục tiêu phát triển ngành công nghiệp sản xuất VLXD EPS đạt trình độ tiên tiến, hiện đại; sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước; loại bỏ hoàn toàn công nghệ sản xuất VLXD lạc hậu, tiêu tốn nhiều tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có tính cạnh tranh mạnh trên thị trường quốc tế. Hạn chế xuất khẩu những sản phẩm sử dụng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu là tài nguyên khoáng sản không tái tạo.
Theo nhận định của Bộ Xây dựng, Chiến lược được phê duyệt có ý nghĩa quan trọng, dẫn dắt định hình các hoạt động phát triển VLXD phù hợp với quy luật cung - cầu của kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy phát triển kinh tế - xã hội và hài hòa bảo vệ môi trường làm chủ đạo trong thời gian 10 năm tới và định hướng đến năm 2050.
Đặc biệt, Chiến lược sẽ tạo điều kiện cho công tác cải cách thủ tục hành chính ngày càng diễn ra nhanh và hiệu quả hơn để đáp ứng với nhu cầu phát triển của thực tiễn và hội nhập sâu rộng cùng xu thế phát triển VLXD EPS của thế giới.
Đây cũng sẽ trở thành bệ đỡ hành lang chính sách thúc đẩy ngành VLXD EPS. Với định hướng rõ ràng, sự hỗ trợ thiết thực, ngành VLXD EPS tại Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để tăng tốc.
Định hướng phát triển VLXD EPS năm 2021
Theo đánh giá chung, mặc dù ngành VLXD năm 2020 đã đạt được một số bước tiến nhất định, song sản xuất VLXD của Việt Nam vẫn chưa thực sự bền vững, còn bộc lộ những vấn đề bất cập cần phải khắc phục như: Việc đầu tư phát triển sản xuất đối với một số chủng loại VLXD còn chưa hợp lý, quy mô còn nhỏ và phân tán, hiệu quả đầu tư chưa cao; công nghệ sản xuất VLXD ở một số lĩnh vực còn lạc hậu; nhân lực kỹ thuật được đào tạo bài bản trong lĩnh vực sản xuất VLXD còn mỏng, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển ngày càng cao của Ngành…
Dự báo năm 2021, ngành VLXD sẽ đứng trước hai nguồn cầu lớn. Thứ nhất là vấn đề khắc phục sự cố lũ lụt ở miền Trung và sạt lở ở miền núi trong giai đoạn vừa qua. Điều này cần phải dùng đến số lượng vật liệu rất lớn để đáp ứng cho xây dựng, sửa chữa cơ sở hạ tầng. Cùng với đó là quyết định chủ trương đầu tư của Chính phủ trong việc đầu tư công của các dự án cuối năm 2020. Thứ hai là, thị trường BĐS dự báo đang có chiều hướng phục hồi tốt. Điều này dẫn đến đầu tư BĐS tăng lên, kéo theo việc sử dụng vật liệu vào các công trình cũng tăng lên. Đó là những yếu tố có thể đánh giá thị trường sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm VLXD tương đối khả quan so với các nước khác trong khu vực.
Do đó, để phát triển bền vững ngành VLXD giai đoạn tiếp theo, ông Phạm Văn Bắc - Vụ trưởng Vụ VLXD, Bộ Xây dựng cho rằng, cần ưu tiên đầu tư các dự án sản xuất VLXD EPS mới, các dự án công suất lớn sử dụng công nghệ tiên tiến; các dự án sản xuất VLXD EPS sử dụng khối lượng lớn chất thải từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp và rác thải sinh hoạt; kết hợp việc sử dụng khoáng sản tự nhiên với việc sử dụng vật liệu tái chế. Tận dụng tối đa tro, xỉ, thạch cao phát thải từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón và các cơ sở công nghiệp khác làm nguyên liệu, phụ gia sản xuất VLXD…
Đối với hành lang pháp lý để phát triển VLXD EPS, cần bổ sung thêm những chính sách, tính pháp lý cho việc đầu tư phát triển vật liệu xanh, vật liệu sử dụng các chất thải, phế thải để sản xuất VLXD EPS và sử dụng trong các công trình xây dựng…